Nộp chứng cứ khởi kiện là dữ liệu điện tử là một vấn đề mà những nguyên đơn thường hay thắc mắc và phân vân trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ. Như vậy, Đối với các tài liệu, chứng cứ là dữ liệu điện tử thì khi khởi kiện hình thức nộp sẽ như thế nào, Tòa án có chấp nhận sử dụng tài liệu, chứng cứng là dữ liệu điện tử để giải quyết tranh chấp không? Sau đây là những nội dung cơ bản mà tôi cung cấp để làm rõ các vấn đề trên.
Nộp chứng cứ là dữ liệu điện tử
Chứng cứ khởi kiện dưới dạng điện tử là gì?
Theo Điều 93 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về chứng cứ như sau:
Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.
Theo Luật Giao dịch điện tử 2005 thì quy định về giá trị chứng cứ của thông điệp được giải thích tại Điều 14 như sau:
- Thông điệp dữ liệu không bị phủ nhận giá trị dùng làm chứng cứ chỉ vì đó là một thông điệp dữ liệu.
- Giá trị chứng cứ của thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi thông điệp dữ liệu; cách thức bảo đảm và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu; cách thức xác định người khởi tạo và các yếu tố phù hợp khác
Như vậy, từ các quy định trên có thể hiểu Chứng cứ điện tử là thông điệp dữ liệu được khởi tạo, lưu trữ, truyền tải, nghe, nhìn được bằng phương tiện điện tử và đảm bảo các yêu cầu của pháp luật về cách thức khởi tạo và duy trì tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu cũng như các yếu tố phù hợp khác.
>>> Xem thêm: Khi nào file ghi âm lời nói có được xem là chứng cứ
Quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ
Căn cứ khoản 1, 2, 3 Điều 96 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định về việc giao nộp tài liệu, chứng cứ như sau:
- Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án. Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật này để giải quyết vụ việc dân sự.
- Việc đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án phải được lập biên bản. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ.
- Đương sự giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp
Các loại tài liệu, dạng chứng cứ điện tử
- Dựa vào cấu tạo chứng cứ điện tử: Chữ ký số, chữ ký điện tử, mật mã điện tử, ký hiệu điện tử, thông điệp dữ liệu điện tử, tài liệu lưu trữ điện tử
- Dựa vào nguồn chứng cứ điện tử: tài liệu, dữ liệu được lưu trữ trong bộ nhớ điện tử, lịch trình thanh toán, mẫu thông tin đăng ký trực tuyến, lịch sử giao dịch…
- Dựa vào khả năng lưu trữ: các cuộc trò chuyện, tin nhắn văn bản qua điện thoại hay các cuộc trò chuyện, âm thanh và hình ảnh được truyền trực tuyến mà không được lưu giữ lại, dữ liệu điện tử trong hệ thống Thông tin và Truyền thông.
Tài liệu, chứng cứ
Khi nào dữ liệu điện tử trở thành nguồn chứng cứ
Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
- Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
- Vật chứng.
- Lời khai của đương sự.
- Lời khai của người làm chứng.
- Kết luận giám định.
- Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
- Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
- Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
- Văn bản công chứng, chứng thực.
- Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Như vậy, với quy định trên có thể hiểu chứng cứ được thu thập từ nguồn là dữ liệu điện tử chứa dữ liệu điện tử không phải là chứng cứ.
Nguồn của tài liệu, chứng cứ
Một số lưu ý khi giao nộp tài liệu, chứng cứ là dữ liệu điện tử
Thời hạn
Theo Khoản 4 Điều 96 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định:
Đối với Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.
Đảm bảo chất lượng
Giữ bản gốc
>>> Xem thêm: Đương sự có quyền cung cấp chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm
Luật sư tư vấn trình tự, thủ tục khởi kiện giao nộp tài liệu chứng cứ điện tử
- Tư vấn thu thập tài liệu, chứng cứ cho việc khởi kiện
- Soạn thảo đơn từ, sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện
- Tranh tụng tại Tòa bảo vệ quyền lợi cho thân chủ
- Các vấn đề khác có liên quan
Như vậy, Công nghệ ngày càng phát triển thì cũng sẽ xuất hiện thêm nhiều loại thiết bị phục vụ cho việc lưu trữ dữ liệu. Vì vậy mà các thiết bị này sẽ trở thành nguồn chứa các chứng cứ để giải quyết vụ án. có liên quan. Bài viết tôi cũng đã phần nào cung cấp được các nội dung về chứng cứ khởi kiện dưới dạng điện tử và một số lưu ý khi giao nộp tài liệu, chứng cứ là dữ liệu điện tử. Nếu Quý khách hàng có khó khăn hoặc thắc mắc gì về vấn đề trên, cần tôi tư vấn luật dân sự, trình tự, thủ tục khởi kiện dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự hãy vui lòng liên hệ đến hotline 1900.633.716 của Luật L24H để được tư vấn kỹ hơn. Xin cảm ơn.